Chùa Thập Tháp Là Một Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Thời Nguyễn, Thuộc Thôn Vạn Thuận, Xã Nhơn Thành, Huyện An Nhơn, Do Thiền Sư Nguyên Thiều Sáng Lập Vào Năm 1665. Chùa Ở Vị Trí Sát Mặt Thành Phía Bắc Kinh Đô Đồ Bàn Cũ Và Thành Hoàng Đế Sau Này, Trên Một Ngọn Đồi Cây Cối Rậm Rạp, Chu Vi Gần 1km2, Trước Mặt Là Ngọn Thiên Bút Sơn Hay Còn Gọi Là Núi Mò O. Về Mặt Phong Thủy Mà Xét Đoán, Khi Chọn Hướng Để Xây Dựng, Thiền Sư Nguyên Thiều Có Lẽ Đã Lấy Núi Này Làm Bức Bình Phong Che Chắn Cho Mặt Chính Của Chùa. Sau Lưng Được Bọc Bởi Chi Lưu Của Sông Côn Chạy Dọc Theo Sườn Đồi. Phía Bắc Là Con Sông Quai Vạc, Xưa Gọi Là Bàn Khê, Uốn Lượn Chạy Về Phía Đông, Đối Diện Với Chùa Được Thiết Kế Hồ Sen Rộng Chừng 500m2, Bờ Xây Bằng Đá Ong. Đến 1680, Chùa Chính Thức Mới Được Xây Dựng Bề Thế, Với Tên Gọi Lúc Bấy Giờ Là Di-Đà-Tự. Chất Liệu Xây Chùa Tương Truyền Dùng Gạch Của 10 Ngọn Tháp Đổ Của Người Chăm Nằm ở Phía Sau Đồi Long Bích. Hiện Nay Quanh Chùa Còn Thấy Dấu Vết Các Nền Tháp, Và Rải Rác Còn Có Một Số Mảnh Đá Trang Trí. Phía Sau Chùa Hiện Còn Có 4 Giếng Vuông Xây Bằng Đá Ong. Kiến Trúc Chùa Thập Tháp Di Đà Theo Hình Chữ Khẩu, Được Chia Thành 4 Khu Vực: Chánh Điện, Phương Trượng, Tây Đường Và Đông Đường. Các Khu Này Nối Liền Với Nhau Bằng Một Khoảng Sân Bên Trong, Còn Gọi Là Sân Thiên Tỉnh (Giếng Trời) Có Tác Dụng Điều Chỉnh Ánh Sáng Cho 4 Khu Kiến Trúc Trên. Trong 4 Khu Kiến Trúc, Chánh Điện Là Khu Được Kiến Trúc Bề Thế Nhất, Gồm 5 Gian Bằng Gỗ, Bên Trong Là Bộ Khung Có 4 Hàng Cột Cái, 4 Hàng Cột Quân, 8 Cột Con Và 16 Cột Hiên. Bộ Sườn Kết Cấu Theo Kiểu Kẻ Chuyền, ở Đầu Đỡ Thượng Lương Là Trụ Lỏng (Chày Cối) Thô, Trang Trí Họa Tiết Hoa Sen, Xếp Sách… Những Đoạn Trích Cấu Tạo Kiểu Giá Chiêng, Hai Đầu Chạm Hoa Cuộn; ở Những Điểm Như Đầu Kèo, Vật Kê Đều Được Chạm Hình Rồng Cách Điệu, Nét Trơn Uốn Lượn Trang Nhã Trong Lòng Chánh Điện Được Bài Trí Các Khám Thờ; Khám Chính Chiều Cao 5m, Bên Trên Được Chạm Lưỡng Long Tranh Châu, Hai Bên Trang Trí Kiểu Long Phụng Cách Điệu Mây Là, Giữa Đề Chữ Phúc, Phía Dưới Khám Là Đề Tài Bút Sách, Tất Cả Đều Được Sơn Son Thếp Vàng. Hai Khám Thờ Trái Và Phải Của Khám Chính, Cũng Được Bố Cục Như Vậy, Mô Típ Chạm Khắc Cầu Kỳ Hơn Được Chạm Lộng Hai Lớp, Hình Rồng Cuộn Xoáy Phức Tạp, Mang Dáng Dấp Của Mỹ Thuật Thời Lê. Ngoài Ra Còn Có 3 Khám Thờ Khác Nhưng Bố Cục 3 Khám Này Khá Đơn Giản Không Có Gì Đặc Biệt. Mặt Trước Hành Lang Là Bộ Cửa Bàn Pha, Được Ghép Liền Với Nhau Tất Cả 14 Cánh, Trên Tạo Song Tiện, Dưới Lấp Kín Chữ Phúc Và Hoa Văn Kỹ Hà. Bên Trên Ngưỡng Là Dải Ô Sen Chạy Theo Rui Cửa Chạm Bài Lệ Của Tổ Sư Đạo Nguyên Có Tất Cả 24 Chữ, Các Đầu Kèo Đưa Ra Đoạn Này Trang Trí Nhẹ Nhàng Bằng Những Hoa Văn Hình Rồng, Nét Thanh Thoát Uyển Chuyển. Bên Ngoài Hai Đầu Hồi Xây Gạch, Hệ Thống Cửa Cấu Tạo Đơn Giản. Chánh Điện Lợp Ngói Âm Dương, Mái Thẳng, Các Góc Không Cong, Bờ Nóc Chạy Thẳng, Nay Được Tạo Hình Lưỡng Long Tranh Châu. Kế Tiếp Sau Chánh Điện Là Khu Phương Trượng, Được Kiến Trúc Theo Kiểu Nam Trung Quốc, Được Cải Tạo Và Nâng Cấp Vào Năm 1973, Mái Ngói Âm Dương, Bên Trong Kết Cấu Bộ Sườn Gỗ Và Dạng Khám Thờ Được Lắp Ráp, Chạm Trổ Khá Đẹp. Khu Vực Tây Đường Và Đông Đường Cũng Được Kiến Trúc Giống Như Phương Trượng. Ngoài 4 Khu Vực Trên Phía Tây Còn Có Một Nhà Chánh Thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Quan Công, Thập Điện…. Hình Thái Kiến Trúc Chùa Thập Tháp Hiện Nay Là Kết Quả Của Nhiều Lần Trùng Tu, Gần Đây Nhất Là Vào Năm 1997, Chùa Được Nâng Cao Lên So Với Mặt Bằng Cũ 0,60m Nhưng Khuôn Viên Kiến Trúc Vẫn Giữ Được Nguyên Như Cũ. Tuy Được Kết Hợp Hòa Quyện Giữa Cái Cũ Và Cái Mới, Nhìn Chung Hệ Thống Liên Kết Của Chùa Thập Tháp Vẫn Tuân Thủ Theo Nguyên Tắc Truyền Thống Của Kiến Trúc Việt Nam - Hoàn Toàn Dùng Mộng, Không Dùng Đinh Hoặc Lạt Buộc. Ngoài Giá Trị Về Kiến Trúc, ở Đây Còn Có Nhiều Tác Phẩm Điêu Khắc, Hiện Vật Có Giá Trị Về Nhiều Mặt Còn Được Lưu Giữ Cho Đến Ngày Hôm Nay. Mặc Dù Kiến Trúc Mới Được Làm Lại Gần Đây, Nhưng Những Gì Còn Lại ở Nơi Đây, Đã Đưa Thập Tháp Lên Hàng Đầu Trong Các Ngôi Chùa Có Kiến Trúc, Điêu Khắc Đẹp Nhất ở vùng Bình Định.

23/12/10

Tâm Vốn Thanh Tịnh


Đạo Phật khuyến khích mọi người trở về với con người thật của chính mình, với bản tánh chân thật, biết sống hài hòa với thiên nhiên và mọi người trong xã hội. Đạo Phật xác nhận rằng một đời sống nội tâm hài hòa như vậy, sẽ đem lại sự hạnh phúc cho chính tự thân mình. Bởi vậy, giáo lý của Phật giáo đã chủ trương hướng nội, bằng cách nhận diện nơi bổn tâm, xa lìa tất cả phiền não mê vọng.
Sống trong xã hội, ai ai cũng muốn cuộc sống của mình được sung sướng chẳng hạn như: muốn nhà được rộng rãi, có đầy đủ tiện nghi..v. v… Chính vì lòng ham muốn này đã tạo nên động lực khiến con người phát huy hết khả năng sức lao động của chính mình để tạo ra nhiều của cải vật chất. Đạo Phật rất quý trọng việc làm này. Nhưng chỉ có điều là con người phải làm sao đừng để vật chất cuốn hút, làm lu mờ cái bản tâm của chính mình. Chính vì sợ con người bị vật chất, ngoại cảnh cuốn hút, mất chơn tâm, khiến con người chịu khốn khổ. Đạo Phật đã khéo léo chỉ dạy cho con người thấy được cái chân tướng của tâm nhằm đưa tự thân đến sự an vui hạnh phúc chân thật. Trong Bát Nhã tâm kinh, có đoạn: “Chơn tâm của chúng ta từ xưa đến nay là thường trú, vắng lặng, không sanh, không diệt, không đến, không đi, không tăng, không giảm, không ô nhiễm”. Đồng với quan điểm này Lục Tổ Huệ Năng đã khẳng định:“Bồ đề bổn vô thọ,Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhá trần ai” (Bồ đề chẳng phải cây, Gương sáng cũng không đài, Xưa nay không một vật, Chỗ nào vướng bụi trần). Sở dĩ, con người không thấy được chơn tâm này vì bị vô minh phiền não, tham, sân, si, che lấp. Điều này trong các kinh thường ví chân tâm này là mặt trăng luôn luôn trong sáng từ xưa đến nay, nhưng vì mây đen (vô minh) che lấp nên mặt trăng không chiếu sáng. Thật vậy, từ xưa đến nay con người luôn sống với cái tâm vọng động, chấp trước chạy theo ngoại cảnh bên ngoài. Do đó, tâm không yên ổn chút nào hết. Cái tâm như vậy trong kinh thường gọi là: “Tâm viên, ý mã”. Vậy, để làm cho tâm trụ lại một chỗ không chạy rong ruổi theo ngoại cảnh. Đòi hỏi con người phải luôn hồi quang phản chiếu nơi tự tâm của chính mình, phải luôn quán chiếu cảnh vật xung quanh luôn thay đổi. Sở dĩ, con người bị khổ đau là do không thấy được chơn tâm này, luôn khởi tâm nhiễm ô phân biệt chấp trước đối với ngoại cảnh. Trái lại, nếu trong một niệm, con người khởi lên tâm thanh tịnh, tỉnh giác trong sáng, không chấp trước, nhiễm ô thì đó mới là chơn tâm, là Phật tánh.
Trong tâm thức con người luôn có hạt giống an lạc giải thoát, nếu mỗi ngày biết chăm sóc tưới tẩm thì hạt giống ấy sẽ mỗi ngày mỗi phát triển. Cũng vậy khi con người hành động nên phải tỉnh thức tự tâm của mình. Nhận diện được “Tâm Vốn Thanh Tịnh” thì sẽ đem lại sự an tịnh và hạnh phúc cho chính mình.

20/12/10

BỐN MÙA


Xuân có trăm hoa, Thu có trăng
Hạ về gió mát, tuyết Đông giăng
Ví lòng thanh thản không lo nghĩ
Ấy buổi êm đềm chốn thế gian.

7/12/10

CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI CHÚNG BỘ VÀ THƯỢNG TOẠ BỘ



Các Quan Điểm Của các Bộ Phái Thuộc Đại Chúng Bộ

a. Các quan điểm căn bản[1] của Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ và Kê-dận bộ
Các quan điểm căn bản của Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê-dận bộ đồng cho rằng:
1)Chư Phật Thế Tôn đều là những bậc siêu xuất thế gian.
2)Tất cả các đức Như Lai không còn hữu lậu.
3 Lời nói của chư Như Lai đều là chuyển pháp luân.
4)Đức Phật dùng một âm thanh nói tất cả pháp.[2]
5)Tất cả những lời nói của Thế Tôn đều như thật nghĩa.
6)Sắc thân của Như Lai không có giới hạn.
7)Oai lực của Như Lai cũng không có giới hạn.
8)Thọ lượng của Như Lai cũng không có giới hạn.
9)Chư Phật hóa độ các loài hữu tình khiến sanh lòng tịnh tín nhưng các Ngài không có tâm chán ngán hoặc thỏa mãn.
10)Đức Phật không có ngủ và nằm mộng[3].
11)Như Lai vấn đáp không cần phải đợi suy nghĩ.
12)Đức Phật không bao giờ nói về danh, cú, văn vì Ngài luôn ở trong định, tuy nhiên các loài hữu tình cho rằng Ngài có nói danh, cú, văn liền sanh tâm vui vẻ phấn khởi.
13)Chư Phật trong một sát na tâm liễu tri tất cả các pháp.
14)Chư Phật trong một sát na tâm tương ưng với bát nhã biết được tất cả các pháp.
15)Lậu tận trí và vô sanh trí[5] của Phật Thế Tôn thường luôn hiện hữu (tùy chuyển) cho đến lúc Niết-bàn.
16)Tất cả các vị Bồ-tát khi nhập thai đều không chấp thọ các trạng thái: Yết lạt lam, Át-bộ-đàm, Bế-thi và Kiện-nam[6] của thai nhi làm tự thể.
17)Tất cả Bồ-tát khi vào thai mẹ đều hiện hình voi trắng.[7]
18)Tất cả Bồ-tát xuất thai đều bằng hông bên phải.[8]
19)Tất cả Bồ-tát đều không có khởi tư tưởng tham dục, tư tưởng sân hận, tư tưởng ác hại.
20)Bồ-tát vì muốn lợi ích cho hữu tình, nguyện sanh vào ác thú liền như ý thọ sanh.
21)Trong một sát na tâm dùng trí Hiện quán biên[9] biết khắp tất cả các tướng sai biệt của Tứ đế.
22)Năm thức của thân gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức có nhiễm ô và lìa nhiễm ô.[10]
23)Ở cõi Sắc và Vô sắc mỗi thân đều đủ sáu thức.
24)Thể chất của năm sắc căn là khối thịt nên mắt không thấy sắc, tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng ngửi mùi, lưỡi chẳng nếm mùi, thân không biết sự xúc chạm.
25)Ở Đẳng dẫn vị[11] vẫn phát ra ngôn ngữ, vẫn có tâm điều phục, có tác ý thanh tịnh.
26)Mọi việc làm điều đã hoàn tất,[13] không còn chấp chứa một pháp nào.
27)Các vị Dự-lưu có thể thấu rõ tự tánh của tâm và tâm sở.
28)Có vị A-la-hán vẫn còn bị người khác dẫn dụ, vẫn còn vô tri, tâm còn hoài nghi, lại nhờ người khác được ngộ đạo và nhờ vào tiếng (khổ) mà thánh đạo phát khởi.
29)Khổ có thể dẫn dắt vào thánh đạo.
30)Tiếng khổ có thể trợ giúp (ngộ đạo).
31)Trí tuệ làm gia hạnh có thể diệt trừ được các khổ, cũng có khả năng đưa đến an lạc.
32)Khổ (thọ) cũng là thức ăn.
33)Địa thứ 8 cũng được trụ lâu dài.[15]
34)Cho đến Tánh địa pháp[16] có thể nói vẫn còn thối chuyển.
35)Dự-lưu còn có thối chuyển.
36)Bậc A-la-hán thì không thối chuyển.
37)Không có chánh kiến thế gian.
38)Không có tín căn thế gian.
39)Cũng không có pháp vô ký.
40)Khi nhập Chánh tánh ly sanh mới có thể nói là đoạn trừ tất cả các kiết sử.[17]
41)Các vị Dự-lưu vẫn còn tạo nghiệp ác chỉ trừ tội vô gián.[18]
42)Các kinh của đức Phật thuyết đều là liễu nghĩa.
43)Pháp vô vi gồm có 9 loại: 1) trạch diệt, 2) phi trạch diệt, 3) hư không, 4) không vô biên xứ, 5) thức vô biên xứ, 6) Vô sở hữu xứ, 7) Phi tưởng phi phi tưởng xứ, 8) Duyên khởi chi tánh (12 chi phần duyên khởi), 9) Thánh đạo chi tánh (tám chi phần thánh đạo).
44)Tâm tánh vốn thanh tịnh nhưng vì bị tạp nhiễm bởi khách trần phiền não nên mới nói bất tịnh.
45)Tùy miên chẳng phải tâm, chẳng phải tâm sở, cũng không có đối tượng (sở duyên).
46)Tùy miên khác với triền phược,[20] triền phược khác với tùy miên. Cho nên mới nói tùy miên không tương ưng với tâm mà triền phược lại tương ưng với tâm.
47)Quá khứ và vị lai không có thật thể .
48)Tất cả các pháp xứ[21] không phải là cái được biết, không phải là cái được nhận thức suy lường, cũng không phải là cái thông đạt.
49)Cũng không có thân trung hữu (ấm).[22]
50)Các quả vị Dự-lưu cũng đạt được tĩnh lự.[23]
Những điều trên đây là những các quan điểm căn bản.
b. Quan điểm dị biệt của Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ và Kê dận bộ
Còn quan điểm dị biệt của bốn bộ này thì cho rằng:
1)Như Thánh đế có các tướng sai biệt, cũng như thế, Hiện quán[24] đều có các tướng sai biệt.
2)Có một số pháp tự sanh khởi, có một số pháp do cái khác làm ra, có một số pháp do cả hai cùng làm ra, lại có một số pháp do các duyên sanh ra.
3)Trong cùng một thời điểm có thể có hai tâm cùng sanh khởi.
4)Thánh đạo và phiền não đều cùng hiện khởi.[25]
5)Nghiệp và quả Dị-thục đều cùng lúc chuyển biến.
6)Chủng tử chính là hạt mầm.[26]
7)4 đại và 6 sắc căn có chuyển biến (thay đổi) nhưng tâm và tâm sở không chuyển biến.
8)Tâm bao trùm khắp cả thân.
9)Tâm tùy theo căn và cảnh mà có sự co giãn (mở rộng và thu hẹp).[28]
Những điều trên đây là các quan điểm dị biệt của bốn bộ phái, và cứ tiếp nối như thế (các bộ phái) đã tạo ra vô lượng sai biệt.
c. Các quan điểm căn bản của Đa Văn bộ
Các quan điểm căn bảncủa Đa văn bộ cho rằng:
1)Năm âm thanh của đức Phật gồm: Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã và Niết-bàn-tịch-tĩnh là những giáo lý siêu xuất thế gian vì năm âm thanh này có khả năng chỉ ra con đường giải thoát; Còn những âm thanh khác của Như Lai là những giáo lý thế gian.
2)Có vị A-la-hán bị người khác dẫn dụ, cũng còn vô tri, tâm còn hoài nghi, lại nhờ người khác được ngộ đạo và thánh đạo nhờ vào tiếng (khổ) mà phát khởi.
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều đồng với thuyết Nhất thiết hữu bộ.
d.Các quan điểm căn bản của Thuyết giả bộ
Các quan điểm căn bảncủa Thuyết giả bộ cho rằng:
1)Khổ không phải là Uẩn.
2)Mười hai xứ không phải thật hữu.
3)Các hành xoay vần đối đãi hòa hợp nên giả gọi là khổ mà không có sĩ phu dụng.
4)Không có cái chết phi thời (bất đắc kỳ tử) mà tất cả do nghiệp đời trước mà có.
5)Nghiệp tăng trưởng làm nhân nên quả Dị-thục chuyển đổi.
6)Chứng đắc Thánh đạo là nhờ vào phước đức chứ không thể nhờ vào sự tu tập.
7)Thánh đạo cũng không thể bị hư hoại.
Ngoài ra những vấn đề khác phần nhiều đồng với luận điểm của Đại chúng bộ.
e. Các quan điểm căn bản của Chế đa sơn, Tây sơn trụ, Bắc sơn trụ
Các quan điểm căn bảncủa ba bộ phái Chế đa sơn bộ, Tây sơn trụ bộ và Bắc sơn trụ bộ cho rằng:
1) Bồ-tát vẫn chưa thoát khỏi ác đạo.
2) Cung kính cúng dường tháp miếu không được phước báo to lớn.
3) Bậc A-la-hán còn bị người khác dụ dẫn, cũng còn vô tri, v.v…
Năm điều này cùng với những vấn đề khác phần nhiều đồng với luận thuyết của Đại chúng bộ.

Các Quan Điểm Của các Bộ Phái Thuộc Thượng Tọa Bộ

a. Các quan điểm căn bản của phái Nhất thiết hữu bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Nhất thiết hữu bộ cho rằng:
1) Hữu bộ cho rằng tất cả các pháp đều nằm trong hai loại: danh và sắc.[1]
2)Quá khứ, vị lai đều có thật thể.
3)Tất cả các pháp xứ đều là những cái được biết, được nhận thức và được thấu đạt.
4)Sanh và lão (bệnh tử) là vô thường, thuộc Hành uẩn và không cùng tương ưng với Tâm.
5)Các pháp hữu vi có 3, vô vi cũng có 3.[2]
6)Mỗi tướng của 3 pháp hữu vi thứ đều có thật thể riêng biệt.
7)(Trong tứ đế), 3 đế là hữu vi, còn 1 đế là vô vi.
8)Bốn thánh đế đều là pháp hiện quán theo thứ tự.
9)Nương hai chánh định Không và Vô nguyện có thể chứng nhập Chánh tánh ly sanh.
10)Tư duy các hành ở Dục giới cũng chứng đắc Chánh tánh ly sanh.
11)Khi chứng nhập Chánh tánh ly sanh, trong 15 tâm đầu gọi là Hành hướng (Tu-đà-hoàn hướng), còn tâm thứ 16 gọi là Trụ quả (Tu-đà-hoàn quả).[4]
12)Trong một (sát na) tâm của Thế đệ nhất pháp gồm có 3 phẩm.[5]
13)Pháp thế đệ nhất chắc chắn không còn thối chuyển.
14)Dự lưu không còn thối chuyển.
15)Có vị A-la-hán còn bị thối chuyển.[6]
16)Không phải tất cả các bậc A-la-hán đều chứng được trí vô sanh.
17)Phàm phu[7] cũng có thể đoạn trừ được tham dục và sân hận.
18)Ngoại đạo có thể chứng đắc ngũ thông.
19)Chư thiên cũng có người sống đời phạm hạnh.
20)Trong bảy Đẳng chí[8] thì giác chi có thể chứng đắc, còn những Đẳng chí khác thì không có.
21)Tất cả các tĩnh lự đều nằm trong Tứ niệm xứ.
22)Không nương vào tĩnh lự cũng có thể chứng được Chánh tánh ly sanh, và cũng có thể chứng được quả vị A-la-hán.
23)Nếu nương vào thân hình[9] ở cõi Sắc và Vô sắc thì tuy có thể chứng đắc A-la-hán nhưng không thể nhập Chánh tánh ly sanh.
24)Nương vào thân hình ở cõi Dục không chỉ chứng nhập Chánh tánh ly sanh mà còn có thể chứng đắc quả vị A-la-hán.
25)Con người sống ở Bắc câu lô châu không thể xa lìa cấu nhiễm nên bậc thánh không sanh ở đó cùng cõi trời Vô tưởng.
26)Bốn quả vị sa môn không nhất định phải chứng đắc lần lượt (từ thấp đến cao).
27)Nếu đã chứng nhập Chánh tánh ly sanh, nương vào pháp thế gian thì cũng có thể chứng đắc quả vị Tư đà hàm và A na hàm.
28)Có thể nói Bốn niệm xứ gồm thâu tất cả các pháp.
29)Tất cả các loại tùy miên là tâm sở, cùng tương ưng với tâm[10] và đều có đối tượng.
30)Tất cả tùy miên thuộc triền phược, nhưng không phải tất cả triền phược đều thuộc tùy miên.
31)Tất cả các chi phần của Duyên khởi chính là pháp hữu vi.
32)Có vị A-la-hán tu tập chuyển hóa tùy theo từng chi phần duyên khởi.[11]
33)Có vị A-la-hán chuyên tu tập để tăng trưởng phước nghiệp.
34)Duy chỉ có ở cõi Dục và cõi Sắc là có thân trung ấm.
35)Các thức của sắc thân như nhãn, nhĩ… vừa nhiễm ô vừa không nhiễm ô. Chúng chỉ có thể nắm giữ tự tướng mà không có khả năng phân biệt.
36)Tâm và tâm sở pháp đều có thật thể.
37)Tâm và tâm sở chắc chắn phải có đối tượng (sở duyên).
38)Tự tánh không tương ưng với tự tánh, tâm không tương ưng với tâm.
39)Có cái gọi là chánh kiến thế gian.[12]
40)Có tín căn thế gian.
41)Có cả pháp vô ký.
42)Các bậc A-la-hán đều có pháp hữu học và vô học.
43)Các vị A-la-hán đều được tĩnh lự (định) nhưng không phải lúc nào tĩnh lự cũng hiện tiền (thường hằng).[13]
44)A-la-hán vẫn còn thọ lãnh nghiệp báo cũ (quá khứ).
45)Có chúng sanh trụ trong thiện tâm mà chết.
46)Ở Đẳng dẫn vị chắc chắn không còn mệnh chung.
47)Sự giải thoát của Phật và Nhị thừa giống nhau, nhưng Thánh đạo của ba thừa mỗi mỗi đều khác biệt.[14]
48)Lòng từ bi của chư Phật không duyên vào chúng sanh.[15]
49)Chấp rằng có thật chúng sanh (và ý niệm giải thoát) thì không được giải thoát.
50)Có thể nói Bồ-tát vẫn còn là chúng sanh, vì chưa đoạn trừ được tất cả các kiết sử.
51)Nếu chưa chứng nhập Chánh tánh ly sanh mà ở địa vị phàm phu thì chưa được gọi là siêu việt (giải thoát).
52)Do bám chấp vào các hiện hữu liên tục nên mới giả lập thành chúng sanh.
53)Có thể nói tất cả các hành đều chấm dứt trong một sát na.
54)Chắc chắn không có một pháp nào được di chuyển từ đời trước qua đời sau mà chỉ có Bổ-đặc-già-la thế tục di chuyển mà thôi.[16]
55)Đang còn sống mà các Hành đã chấm dứt hoàn toàn thì các Uẩn không còn chuyển dịch thay đổi.[17]
56)Có tĩnh lự (định) xuất thế.
57)Cũng có Tầm vô lậu.
58)Có thiện pháp làm nhân (sanh tử trong 3 cõi).
59)Ở Đẳng dẫn vị thì không còn phát ra ngôn ngữ.
60)Tám chi thánh đạo là chánh pháp luân, chứ không phải lời nói của Như Lai đều là chuyển pháp luân.
61)Đức Phật không thể dùng một âm mà nói tất cả các pháp.
62)Thế Tôn cũng còn nói những lời không như nghĩa.
63)Không phải tất cả kinh Phật thuyết đều là liễu nghĩa, bởi vì chính đức Phật tự nói có những kinh không liễu nghĩa.
Những điều trên đây được gọi là các quan điểm căn bản của Nhất thiết hữu bộ. Còn những quan điểm dị biệt lại nhiều đến vô biên.
b.Các quan điểm căn bản của phái Tuyết sơn bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Tuyết sơn bộ cho rằng:
1)Bồ-tát vẫn còn là phàm phu.
2)Bồ-tát khi vào thai không có khởi tâm tham ái.
3)Không có kẻ ngoại đạo chứng đắc ngũ thông.
4)Cũng không có chư thiên sống đời phạm hạnh.
5)Có bậc A-la-hán vẫn còn bị người khác dẫn dụ, vẫn còn vô tri, tâm còn hoài nghi, lại nhờ người khác mà được ngộ đạo và Thánh đạo nhờ vào tiếng (khổ) mà phát khởi.
Ngoài ra, những luận chấp khác phần nhiều đồng với Thuyết nhất thiết hữu bộ.
c. Các quan điểm căn bản của Độc tử bộ
Các quan điểm căn bảncủa Độc tử bộ cho rằng:
1)Bổ-đặc-già-la không phải uẩn cũng không phải phi uẩn, do nương sự kết hợp của uẩn xứ giới mà giả đặt tên như thế.
2)Các hành chỉ tạm tồn tại và hoại diệt trong một sát na nên nếu lìa Bổ-đặc-già-la thì không pháp nào có thể chuyển tiếp từ đời trước sang đời sau, nhưng vì nương vào con người nên mới có sự di chuyển.
3)Ngoại đạo cũng chứng đắc ngũ thông.
4)Năm thức vừa nhiễm ô, vừa không nhiễm ô.
5)Nếu đoạn trừ được những kiết sử thuộc “Tu sở đoạn” (Tu đạo sở đoạn) ở cõi Dục thì gọi là Ly dục chứ không phải là Kiến sở đoạn (Kiến đạo sở phá).[18]
6)Nhẫn, Danh, Tướng và Thế đệ nhất, bốn pháp này có thể hướng nhập Chánh tánh ly sanh.[19]
7)Nếu đã chứng đắc Chánh tánh ly sanh thì 12 tâm đầu gọi là Hành hướng, còn tâm thứ 13 mới gọi là Trụ quả.
Những luận điểm như thế có rất nhiều điểm sai biệt khác nhau. Nhân cùng nhau giải thích một bài kệ tụng nhưng không thống nhất với nhau về luận nghĩa trong bài tụng ấy mà từ bộ phái này (Độc tử bộ) đã phát sinh thêm bốn bộ phái nữa, đó là: Pháp thượng bộ, Hiền trụ bộ, Chánh lượng bộ và Mật lâm sơn bộ. Bài tụng đó như sau:
Giải thoát rồi vẫn đọa, Bởi do tham khởi lên.
Đạt vui sướng “an, hỉ”,“Lạc hạnh” đưa đến lạc.
d. Các quan điểm căn bản của Hóa địa bộ
Các quan điểm căn bảncủa Hóa địa bộ cho rằng:
1)Quá khứ vị lai thì không có thật, hiện tại và vô vi thì có thật.
2)Cả Bốn thánh đế đều hiện quán trong một lúc. Thấy được Khổ đế liền thấy tất cả các đế khác, nhưng cần phải thấy được (các thánh đế) rồi mới thấy được như thế.[20]
3)Tùy miên không phải tâm, không phải tâm sở và cũng không có cảnh sở duyên.
4)Tùy miên khác với triền phược, vì tự tánh của tùy miên không tương ưng với tâm nhưng tự tánh triền phược lại tương ưng với tâm.
5)Chúng sanh thì chưa đoạn trừ được tham dục và sân nhuế.
6)Không có hàng ngoại đạo chứng được ngũ thông.
7)Cũng không có chư thiên sống đời phạm hạnh.
8)Chắc chắn không có thân trung ấm.
9)Không có A-la-hán tăng trưởng phước nghiệp.
10)Năm thức vừa nhiễm ô vừa không nhiễm ô.
11)Sáu thức cùng tương ưng với Tầm và Tứ.[21]
12)Có Tề-thủ-bổ-đặc-già-la.[22]
13)Có Chánh kiến thế gian.
14)Không có Tín căn thế gian.
15)Không có Tĩnh lự xuất thế.
16)Cũng không có Tầm và Tứ vô lậu.
17)Thiện pháp không phải là nhân (sanh tử trong 3 cõi).[23]
18)Dự-lưu cũng có thể thối chuyển.
19)A-la-hán thì nhất định không còn thối chuyển.
20)Tám chi phần thánh đạo đều được bao hàm trong Tứ niệm xứ.[24]
21)Pháp vô vi gồm có 9 loại, gồm: 1) Trạch diệt, 2) Phi trạch diệt, 3) Hư không, 4) Bất động, 5) Thiện pháp chơn như, 6) Bất thiện pháp chơn như, 7) Vô ký pháp chơn như, 8) Đạo chi chơn như, 9) Duyên khởi chơn như.
22)Từ khi mới nhập bào thai cho đến khi chết thì các đại chủng của sắc căn đều chuyển biến, tâm và tâm sở cũng chuyển biến như thế.
23)Trong tăng có Phật (hiện hữu), nên cúng dường chư tăng sẽ được phước báo rất lớn chứ không phải chỉ có cúng dường chư Phật mới được.
24)Chư Phật và hàng Nhị thừa đều đồng một thánh đạo, và đồng một con đường giải thoát.
25)Tất cả các hành đều chấm dứt trong một sát na nên chắc chắn không có một pháp nào được chuyển biến từ đời trước qua đời sau.
Những điều trên đây chính là quan điểm căn bản của Hóa địa bộ.
e. Các quan điểm dị biệt của Hóa Địa bộ
Còn về quan điểm dị biệt của tông này thì cho rằng:
1)Quá khứ, vị lai đều có thật thể.
2)Cũng có thân Trung ấm.
3)Tất cả các Pháp xứ đều là những pháp được biết, được nhận thức.
4)Nghiệp chính là Tư.
5)Không có thân nghiệp và khẩu nghiệp.
6)Tầm và Tứ tương ưng với nhau.
7)Đại địa thì tồn tại lâu dài.[25]
8)Cung kính cúng dường tháp miếu chỉ được phước báo nhỏ.
9)Tự tánh của Tùy miên thường luôn hiện hữu trong hiện tại.
10)Các Uẩn xứ giới cũng thường luôn hiện hữu trong hiện tại.
Các quan điểm dị biệt của bộ phái này còn do những kiến giải khác nhau trong lúc cùng giải thích bài kệ tụng sau:
Năm pháp này trói buộc,Các khổ từ đó sanh,Là vô minh, tham, ái,Năm kiến và các nghiệp.
f. Các quan điểm căn bản của Pháp tạng bộ
Các quan điểm căn bảncủa Pháp tạng bộ cho rằng:
1)Phật tuy ở trong tăng nhưng cúng dường riêng cho đức Phật thì được phước báo rộng lớn còn cúng dường cho chư tăng thì không bằng.
2)Cúng dường tháp miếu sẽ được công đức thật rộng lớn.
3)Sự giải thoát của Phật và Nhị thừa tuy đồng nhưng Thánh đạo lại khác.
4)Không có ngoại đạo chứng đắc được ngũ thông.
5)Thân thể của A-la-hán đều là vô lậu.
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều tương đồng với Đại chúng bộ.
g. Các quan điểm căn bản của phái Ẩm quang bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Ẩm quang bộ cho rằng:
1)Các pháp đã đoạn trừ và đã biến tri thì không có. Còn chưa đoạn trừ và chưa biến tri thì có.[26]
2)Nếu nghiệp quả đã thành thục thì không, nghiệp quả chưa thành thục thì có.
3)Có Hành lấy quá khứ làm nhân, nhưng không có Hành nào lấy vị lai làm nhân.[27]
4)Tất cả các hành đều đoạn diệt trong một sát na.
5)Tất cả các pháp hữu học đều có quả Dị thục.
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều đồng với quan điểm của Pháp Tạng bộ.
h. Các quan điểm căn bản của phái Kinh Lượng bộ
Các quan điểm căn bảncủa phái Kinh Lượng bộ thì cho rằng:
1)Các Uẩn có thể di chuyển từ đời trước đến đời sau. (Vì thuyết này nên) đặt tên bộ phái này Thuyết Chuyển.
2)Nếu không lìa thánh đạo thì có thể hoàn toàn chấm dứt các uẩn.
3)Có cái Uẩn căn biên, và có cái Uẩn một vị.[28]
4)Trong hàng phàm phu vẫn có thánh pháp.[29]
5)Có thắng nghĩa Bổ-đặc-già-la.[30]
Ngoài ra, những luận điểm khác phần nhiều đồng nhất với quan điểm của Nhất Thiết Hữu bộ.
Ngài Tam tạng pháp sư Huyền Tráng sau khi phiên dịch bộ luận này xong, vì muốn nói cái ý mà Ngài đã dịch bộ luận này lần thứ hai nên có làm bài kệ:
Tôi đã nghiên cứu rõ, Các văn bản phạn văn,
Bộ Dị tông luận này, Nay phát tâm dịch lại.
Lời văn tuy cô đọng, Nghĩa lý lại không sai,
Hành giả là bậc trí, Nên chuyên tâm thọ học.